Con Nghê được xem là một trong những linh vật mang lại may mắn và tài lộc cho người sử dụng. Nó được coi là biểu tượng của sự phát đạt và thịnh vượng. Theo quan niệm phong thủy, đặt tượng nghê trong nhà hoặc văn phòng làm việc sẽ mang lại năng lượng tích cực, giúp thu hút tài lộc và may mắn cho gia chủ.
Nguồn gốc con Nghê
Nghê là linh vật thuần Việt và là biểu tượng đặc trưng của người Việt từ xa xưa. Theo lịch sử, với sự thay đổi trong quan niệm tâm linh và văn hóa, nghê đã được tạo hình và phát triển để phù hợp với bản sắc và truyền thống Việt Nam. Nghê có nét giống với sư tử hoặc kỳ lân, nhưng lại mang thân hình của loài chó. Nghê là sự kết hợp của thân chó và đầu kỳ lân với móng vuốt sắc nhọn. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nhầm lẫn giữa con nghê và tỳ hưu.
Nghê được tạo hình dựa trên loài chó, một động vật thân thuộc, gần gũi với con người. Chó thường được coi là một người bạn trung thành của con người, giúp bảo vệ nhà cửa và chống lại những kẻ xấu. Vì vậy, tạo hình nghê từ chó đã tạo nên sự gần gũi và thân thuộc với người Việt Nam.
Nghê được tạo hình với nhiều chi tiết sống động như đầu giống kỳ lân, dáng thanh mảnh giống chó nhưng lại có răng nanh giống rồng, tuy nhiên vẫn giữ được nét mạnh mẽ và uy nghi của một linh vật phong thủy. Linh vật nghê thường được đặt tại cổng các ngôi nhà, chùa chiền, đình làng miếu để mang lại may mắn và chống lại các tà ma ác quỷ.
Truyền thuyết con Nghê
Trong truyền thuyết về các con vật của Việt Nam, con nghê xuất hiện từ rất lâu, khoảng thế kỷ I TCN. Niên đại này tương đương với giai đoạn cuối của văn hóa Văn Lang đến đầu thời Âu Lạc.
Theo lời kể của các bậc tiền bối và các di tích lịch sử, tài liệu còn sót lại, con nghê phong thủy gắn liền với những câu chuyện linh thiêng, kỳ bí. Chuyện kể rằng, rồng sinh con nhưng đến con thứ 8 thì có hình dạng đặc biệt. Đầu nó không có sừng, chân như chân sư tử, đuôi dài, toàn bộ toát lên vẻ hùng mạnh, dữ dội, có sức mạnh chống lại các loại tà ma ác quỷ. Con vật này gọi là Kim Nghê.
Hình tượng của nghê phong thủy bắt đầu từ đó được đúc thành tượng và đặt ở cổng các ngôi nhà, chùa chiền, đình làng miếu để chống tà ma. Trong một số trường hợp, nghê thể hiện sự bề thế, đẳng cấp và địa vị của gia đình trong xã hội. Có lẽ vì thế, nghê thường được đặt trước cửa nhà quan hay đền, chùa, đình, miếu, …
Vật dụng
Con nghê trong văn hóa Việt Nam có nguồn gốc Ấn Độ, và khi so sánh với sư tử Thái và Lào, nghê khá giống nhưng lại khác với sư tử Trung Quốc. Nghê được xem là linh thú, mang trong mình sự linh thiêng và không chỉ xuất hiện ở các làng quê Bắc Bộ, mà còn hiện diện trong các kiến trúc cung đình ở Huế. Trước cửa Hiển Nhơn và Miếu Môn Thế Tổ Miếu trong Hoàng Thành Huế, hai đôi nghê đá đứng chầu. Khác với hình tượng các con nghê ở đồng bằng Bắc Bộ, hai đôi nghê ở Huế đã được “cung đình hóa” với các chi tiết chạm trổ tinh xảo, tạo thành các chòm lông xoắn ở đầu, tai và đuôi, xen kẽ các đao lửa ở 4 chân và sống lưng.
Con nghê từ lâu đã được coi là biểu tượng của sự tận trung, trung thành và tận tâm tuyệt đối, sáng suốt. Điều này được thể hiện qua việc đội đèn nghê có trong đồ đồng Đông Sơn muộn, cũng như xuất hiện của nghê trong nhiều ngai vàng thời Nguyễn, và là một trong những linh vật được ưa chuộng trong trang trí cung đình. Trong thời Nguyễn, nghê có vị trí cao, là biểu tượng giàu giá trị và được đặt vào vị trí có thể soi xét, phân biệt tà ngay. Mặc dù cung đình đã không còn, nhưng nghê vẫn giữ vị thế tối cao trong xã hội Việt Nam và được coi là hiện thân của sự trung thành, tận tâm và sáng suốt.
Ý nghĩa của Nghê trong phong thủy
Trong văn hóa phong thủy Việt Nam, Nghê là một trong những linh vật có ý nghĩa đặc biệt. Nếu Sư tử đại diện cho sức mạnh, Rồng hay Tỳ hưu được dùng để hút tài lộc thì Nghê được coi là loài thú có nhiệm vụ canh gác và bảo vệ ngôi nhà.
Nghê phong thủy có tác dụng ngăn chặn, xua đuổi tà ma, hung khí và giúp hóa giải, trấn trạch khí xấu. Chính vì vậy, nó thường được đặt ở những vị trí quan trọng như trước cổng đình chùa, ngã ba, nhà có đường cong hoặc vật nhọn hướng đâm vào.
Việc bài trí Nghê tại các vị trí khác nhau cũng mang ý nghĩa phong thủy khác nhau:
- Nghê đặt tại cổng làng, cổng đình chùa: Nghê thường được đặt ở vị trí trên cao nhìn xuống để đoán đọc và kiểm soát được tâm hồn, ý nghĩ của mỗi người đang ra vào chốn linh thiêng. Qua đó, Nghê sẽ biết được con người đó có tâm địa ra sao, có đứng đắn hay không và có xứng đáng để bước vào đền hay không.
- Nghê đặt tại ngã ba đường, trước cửa nhà: Việc đặt Nghê tại những vị trí này có mục đích hóa giải những điểm xấu, sát khí, hung dữ có thể xảy ra cho chủ nhà. Tuy nhiên, Nghê cần được thực hiện đúng phong thủy, không quá lớn mà phải để kích thước vừa phải. Bên cạnh đó, cần đặt Nghê một đôi để đảm bảo cân bằng âm dương và phát huy cao nhất công năng.
- Nghê đặt tại các lăng mộ dòng họ, người có quyền thế, chức vụ: Việc đặt Nghê tại các nơi này thể hiện niềm thương xót, kính cẩn của người sống với người đã khuất. Nghê sẽ canh gác cho giấc ngủ của người dưới mộ, giữ cho họ có một sự ra đi.
Hiện vật
Bảo tàng Guimet ở Paris hiện sở hữu một số cổ vật có hình ảnh của con nghê, bao gồm:
- Chân đèn với tượng nghê và ký hiệu cho biết được chế tạo vào năm 1637 tại Bát Tràng.
- Đĩa vẽ hình nghê, được sản xuất cho thị trường Trung Đông và những nước theo Hồi giáo.
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội cũng có một số hiện vật có hình ảnh của con nghê, bao gồm:
- Đỉnh có nắp, men trắng xám rạn. Triều Lê Trung Hưng, tháng 4 năm Vĩnh Hựu 2 (1736). Đỉnh có nắp hình vòm, chỏm là tượng Nghê vờn ngọc, xung quanh trổ thủng bát quái, gờ miệng phẳng, thân phình có 3 chân thú chạm nổi hổ phù và 2 quai hình rồng. Trang trí nổi các băng văn dây lá lật, hồi văn chữ T, lá đề và rồng trong mây. Minh văn khắc dưới đế. “Vĩnh Hựu vạn vạn niên chi nhị, tứ nguyệt nhật cung tác”. Men rạn trắng xám.
- Nậm rượu với men nhiều màu ở triều Mạc Lê Trung Hưng vào thế kỷ XVI – XVII thì có cổ cao hình trụ, miệng đứng, thân chia 6 múi nổi hình cánh hoa, chạm nổi hình nghê và hoa, viền đế tô nâu. Men trắng ngà và xanh rêu.
- Tượng nghê với men trắng ngà và xanh rêu ở triều Lê Trung Hưng vào thế kỷ XVII. Tượng Nghê trên bệ chữ nhật, tư thế ngồi chầu với 2 chân trước chống, 2 chân sau khuỵu gập lại, đầu ngẩng, cổ đeo chuỗi nhạc nổi. Xung quanh thân và chân chạm mây. Đế chữ nhật chạm mây, hoa sen và hồi văn. Men trắng ngà và xanh rêu.
- Hũ cổ có nắp và được sản xuất trong triều Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802-1819), được trang trí bằng men rạn và lam. Nắp hũ có hình dạng vòm và có chỏm là tượng nghê vờn ngọc, được vẽ những đám mây xung quanh. Gờ miệng của hũ được uốn cong, cổ ngắn, vai phình, thân cao và đế rộng. Vai của hũ được đắp nổi bốn đầu sư tử ngậm vào một vòng tròn. Ngoài ra, hũ còn được trang trí với các đề tài phong cảnh sơn thủy, bao gồm các ngôi nhà, cây cối, người đội ô và người chèo thuyền. Minh văn được khắc bằng men lam dưới đế và có dòng chữ “Gia Long niên chế” (Được chế tạo trong triều Gia Long).
- Hũ có nắp được làm bằng men nâu trắng và lam trong triều Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802-1819). Nắp hũ có hình chỏm là tượng nghê vờn ngọc và được vẽ hoa lá men lam xung quanh. Hũ có gờ miệng phẳng, cổ ngắn, vai phình và đáy lõm. Trên vai hũ đắp nổi 4 đầu sư tử ngậm vòng. Trên thân hũ được vẽ lam tiêu tượng, mã liễu và tùng lộc. Minh văn được viết 4 chữ “Gia Long niên tạo” (chế tạo trong niên hiệu Gia Long). Men nâu, trắng và lam được sử dụng để trang trí hũ.
- Đài thờ có nắp được làm bằng men rạn và ngà trong triều Lê Trung Hưng vào thế kỷ XVIII. Đài thờ này được chia thành 2 phần là miệng hình ô van và nắp được trang trí bằng các họa tiết như núm hình nghê, băng lá lật, mai trúc cúc tùng, chữ “vạn”, và hổ phù. Men rạn và ngà được sử dụng để trang trí đài thờ.
- Tượng nghê được làm bằng sành trong triều Lê-Nguyễn vào thế kỷ XVIII-XIX có thể đứng trên bệ chữ nhật và quanh thân tượng được chạm nổi văn mây, với màu sắc chủ yếu là đỏ nâu.
- Tượng nghê được làm bằng sành trong triều Lê-Nguyễn vào thế kỷ XVIII-XIX có thể quỳ trên bệ chữ nhật, đuôi xoắn và thân tượng được chạm nổi văn mây, với màu sắc chủ yếu là đỏ nâu.